Cây Si (Gừa)

Cây Si, hay còn gọi là cây Gừa, cây Cừa, tên khoa học là Ficus microcarpa, và có một số tên tiếng Anh như : Chinese Banyan, Malayan Banyan, Indian Laurel hoặc Curtain fig. Cây Si là một loài thực vật có hoa trong họ Dâu tằm (Moraceae). Loài này được L.f. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1782.

Cây Si có nguồn gốc ở Đông Nam Châu Á, từ Ấn Độ, Lào, Campuchia, Xri Lanka, Malaysia, đến Indonesia. Ở Việt Nam, cây này thường gặp mọc hoang ở vùng có thủy triều, mọc dựa bờ sông suối, kênh rạch. Cây cũng được trồng trong chậu, trồng làm cây cảnh ở một số nơi.

Cây Si (Gừa) là loài có thân gỗ, cao đến 15-20 m, có rễ phụ mọc ra từ thân và các cành trên cao. Các rễ này mọc dài ra, đâm xuống đất để hút nước và chất dinh dưỡng nuôi cây. Sau khi tiếp đất, các rễ phụ ngày càng to ra, trông như các khúc thân chống xuống đất làm cho cây thêm vững chắc.

Lá mọc so le, dày láng, màu xanh sậm, dài 10-15 cm, rộng 5–6 cm, chóp nhọn hoặc tròn, cuống lá dài 1,5-3,5 cm; lá kèm có lông trắng lúc non. Quả loại sung ở nách lá, đường kính khoảng 1 cm, không cuống, khi chín màu vàng có sọc đỏ. Mùa hoa quả tháng 5 – 6 hàng năm.

    Cây Si có rất nhiều rễ phụ lòng thòng nên thích hợp làm cây bon sai. Nó rất dễ trồng. Cành nhánh đem dâm đều sống, thậm chí cắt cành đem ngâm vào nước nó cũng sống. Cây si thường được trồng trên bể cá, nó bám trên đá rất tốt, đặt biệt là đá san hô. Vì bộ đế nhỏ (gốc không bè ra) nên người ta thường trồng trên đá san hô. Sau một thời gian thì rễ phủ kín, tạo ra bộ đế rất đẹp. Cây Si có nét nổi bật hơn so với cây Sanh là nhờ có bộ rễ dày đặc và rủ xuống này, cây Sanh thì lá đẹp, nhưng không có được bộ rễ như thế.

Chăm sóc :

    Cây Si (Gừa) ưa thích khí hậu nóng ẩm và nơi có đủ ánh nắng, không chịu hạn, sợ nắng gắt, không chịu rét. Có thể sinh trưởng tốt trong môi trường đất hơi chua hoặc hơi kiềm.

    Cây Si có thể trồng đơn lẻ, trồng thành dãy hoặc trồng tập trung trong các vườn, công viên hoặc khu giải trí, cũng có thể trồng trong chậu cảnh.

Trong y học :

    Cây Si còn được dùng làm thuốc. Thu hái lá và rễ phụ quanh năm, rửa sạch, chặt nhỏ rồi phơi khô để dùng dần. Theo Đông y Việt Nam, nó có vị hơi đắng và se, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, làm ra mồ hôi và lợi tiểu. Rễ phụ dùng chữa cảm mạo, sốt cao, viêm amydan, đau nhức khớp xương, chấn thương do đòn ngã.


    Ở Vân Nam (Trung Quốc), dùng Si ( Gừa ) trị viêm phế quản, phong thấp, sởi không mọc, gẫy xương. Ngày dùng 15-30 g, dạng thuốc sắc. Lá dùng chữa cúm, viêm khí quản, ho gà, sốt rét, viêm ruột cấp, lỵ. Ngày dùng 10-12 g, dạng thuốc sắc.


    Một số bài thuốc có cây Si (Ga) :

    - Dự phòng cúm: Lá Si, lá bạch đàn, đều 30g, sắc uống.
    - Viêm ruột cấp, lỵ: Lá Si ( gừa ) tươi 500g, sắc nước, chia 2 lần uống trong ngày.
    - Viêm khí quản mạn: Lá Si ( gừa ) tươi 75g, vỏ quýt 18g, sắc nước, chia 3 lần uống sáng, trưa, chiều. Liên tục trong 10 ngày.