Cây Phi Lao
Cây Phi Lao tên gọi khác là Cây Dương Liễu hay
Cây Dương, tên khoa học là: Casuarina equisetifolia, Có nguồn gốn từ Australia.
Trồng dọc các vùng duyên hải Việt Nam để tránh gió, giữ đất. Cây gỗ lớn cao đến
20m, cành non có màu xanh như lá, chia đốt, mỗi đốt có 1 vòng lá dạng vẩy xếp
sát nhau thành bẹ ngắn dạng răng. Hoa đơn tính cùng gốc, cụm hoa đực dạng bông
uốn cong ở đầu cành, Hoa chỉ có 1 bầu 2 ô. Quả có cánh. Cành non dể uốn tỉa
thích hợp tạo những dáng cây Bonsai chịu nghiệt ngã của hoàn cảnh sống.
Lá Phi Lao có màu xanh đậm tuy nhiên cũng có thể ngả sang màu đỏ
khi vào mùa thu. Có trường hợp đột biến khác thường lá còn chuyển thành màu
trắng. Mùa xuân cũng là mùa khoe sắc của lá và hoa Phi Lao, hoa đực được phát
triển từ ngọn của lá cây. Khi hoa nở rộ trông xa lá cây như chuyển thành màu
vàng úa. Nét đẹp của Phi Lao là lá liễu thướt tha vi vu theo gió bản tình ca
muôn thuở chỉ có ở loài Phi Lao.
Cây Phi Lao như
có một sức sống quật cường, tạo nên những cánh rừng phòng hộ, những “tấm lá
chắn” chống bão, chống cát bay. Cây Phi Lao góp phần cải tạo đất, đem lại màu
xanh cho bao vùng đất có nguy cơ bị hoang mạc, sa mạc hóa…
Người Pháp đã đem cây Phi Lao vào trồng ở Việt Nam từ năm 1896.
Hiện nay Phi Lao đã trở thành một trong những loài cây gỗ quen thuộc của Việt
Nam. Hầu hết các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang đều trồng Phi Lao
trên các bãi cát ven biển. Nhiều tỉnh miền Bắc Việt Nam trồng Phi Lao làm cây
chắn gió, cây ven đường lấy bóng mát, hay trong công viên làm cây cảnh.
Đặc điểm sinh học
Phi Lao có phạm vi thích ứng về mặt khí hậu tương đối rộng, từ khu
vực xích đạo mưa nhiều, lượng mưa trung bình năm trên 2.000mm và không có mùa
khô, đến khu vực khí hậu gió mùa có lượng mưa thấp 700-800mm và mùa khô kéo dài
6-7 tháng. Nhưng ở các khu vực này, Phi Lao thường sống trên các bãi cát ven
biển. Thích hợp các loại đất cát pha nhẹ, tốt, sâu, ẩm, thoát nước, độ pH
6,5-7,0.
Cây sinh trưởng nhanh, cành lá xum xuê, hệ rễ phát triển, rễ cọc
ăn sâu đến 2m, rễ ngang lan rộng và có vi khuẩn cố định đạm Frankia; có thể
chịu được gió bão cấp 10, chịu được cát vùi lấp, trốc rễ. Thân cây chịu được
cát va đập, nếu cây bị cát vùi lấp, nó có thể ra lớp rễ phụ mới ở ngang mặt đất
vì vậy ở Việt Nam, tới nay Phi Lao vẫn là cây gỗ số một được trồng trên vùng
cát cố định và cát bay ven biển. Sau khi trồng 1 năm, cây có thể đạt chiều cao
2-3m, đường kính 3cm; cây 4 tuổi cao 11-12m, đường kính 12-15cm; cây 10 tuổi
cao 18-20m, đường kính trên 20cm. Thông thường trên 25 tuổi, cây ngừng sinh
trưởng chiều cao, đến 30-50 tuổi cây trở nên già cỗi.
Phi Lao sinh trưởng quanh năm, nhưng vào mùa mưa, cây sinh trưởng
nhanh hơn. Ở giai đoạn tuổi nhỏ cây chịu khô và chịu rét kém; vượt qua giai
đoạn này cây sinh trưởng tốt hơn.
Cây tái sinh chồi rất tốt. Trên thân cây có nhiều rễ bất định, do
đó thân cây bị vùi lấp tới đâu, cây vẫn ra rễ được ở nơi đó và sinh trưởng bình
thường.
Công dụng
– Vỏ Phi Lao chứa tanin, thường đạt khoảng 11-18% trọng lượng vỏ.
Tanin thường được dùng để thuộc da, nhuộm lưới đánh cá. Trong 100g cành Phi Lao
ở Puerto Rico chứa: 1,56g N,0,16g P, 0,48g K,1,23g Ca,0,23g Mg và 3,28g Na.
– Gỗ cứng, nặng, màu nâu nhạt và mềm với các vòng năm rõ. Tỉ trọng
0,978. Dễ bị mối mọt. Thường dùng trong xây dựng, trụ mỏ, đóng đồ gỗ, làm cột
điện, và làm củi. Đây là loại củi tốt nhất trong các loài cây, ngay cả khi tươi
củi cũng cháy tốt. Nhiệt lượng của gỗ là 24.000kJ/kg và nhiệt lượng của than từ
gỗ Phi Lao là trên 33.500kJ/kg. Cành, lá Phi Lao rụng dưới rừng là nguồn củi
đun chủ yếu cho nhân dân ở nhiều vùng ven biển. Nhược điểm của gỗ Phi Lao là có
nhiều mắt, sức chịu uốn kém (dòn), dễ bị mối mọt, mục nát.
– Lá cây nhiều cellulose nên dùng làm bột giấy thô và là nguồn
thức ăn tốt cho trâu bò.
– Đây cũng là loại cây công trình trồng chắn gió cho đồng ruộng
rất phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và duyên hải miền Trung. Gần đây một số dự
án trồng Phi Lao ven biển để làm nguyên liệu giấy và ván dăm đã được tiến hành
thử nghiệm ở một số tỉnh vùng Bắc Trung Bộ.
– Phi Lao cũng được dùng làm thuốc: Rễ cây dùng
làm thuốc chữa ỉa chảy và lị.
– Do các cành và thân Phi Lao chịu cắt uốn nên còn dùng làm cây
cảnh, cây bómg mát và cây bon sai.
– Bộ phận dùng: Cành, lá, rễ, vỏ, vỏ quả –
Ramulus, Folium, Radix, Cortex et Fructus Casuarinae Equisetifoliae.
Tính vị, tác dụng: Vỏ thân có tác dụng phát hãn (làm toát mồ hôi)
và lợi niệu. Cành non có tác dụng bình suyễn và lợi niệu. Rễ lại có tác dụng
làm ngừng toát mồ hôi (chỉ hãn). Lá có tác dụng kháng sinh.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Ấn Ðộ, người ta dùng vỏ trị ỉa
chảy và lỵ; nước sắc lá dùng trị đau bụng.
Ở Inđônêxia, người ta lại dùng vỏ chữa đau dạ dày, ruột, lỵ, ỉa
chảy; lại dùng điều kinh, chữa bệnh khi thai nghén, bệnh tê phù và nhức đầu.
Ở Trung Quốc, người ta thường dùng vỏ thân và lá với những tác
dụng như đã nêu; lá được dùng trị sán khí.
Ở nước ta, lá Phi Lao được dùng xông chữa bệnh tổ đỉa và bệnh
ngoài da, còn quả Phi Lao được dùng để chữa chàm bìu dái.
Đơn thuốc: Chữa chàm bìu dái: Quả Phi Lao khô 300g, Tóc rối 20g,
kẽm oxýt 10g, dầu Lạc hay dầu Dừa 50ml. Quả Phi Lao và Tóc rối, đem đốt tồn
tính, rồi nghiền nhỏ thành bột than mịn rồi trộn với kẽm oxýt, sau đó đổ từ từ
dầu Lạc, đánh thành thuốc mỡ. Dùng bôi hàng ngày, từ 8-15 ngày, có thể đến 20
ngày đối với bệnh trung bình và cấp tính, với bệnh mạn tính thì ít kết quả hơn.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Nhân giống:
Thu hạt từ cây 10 tuổi trở lên (chu kỳ sai quả của Phi Lao là 2
năm). Quả chín vào tháng 9¬10 khi vỏ quả chuyển từ xanh sang vàng nhạt, một số
mắt quả mở ra để tung hạt ra ngoài. Mang quả về vun thành đống, ủ 2-3 ngày cho
quả chín đều; mỗi ngày đảo một lần. Khi quả chín đều, phơi 3-5 nắng nhẹ để hạt
tách ra. Hong khô hạt 2-3 ngày nơi râm mát. Khi khô đưa vào bảo quản. Thường
30-35kg quả được 1kg hạt. Có khoảng 650.000-700.000hạt/1kg. Tỷ lệ nảy mầm đạt
35-50%. Nếu được giữở nhiệt độ ổn định 5-100C, hạt có thể duy trì khả năng nảy
mầm đến 1-2 năm.
Trước khi gieo cần ngâm hạt trong nước ấm (450C) và để nguội dần,
sau 10-12 giờ vớt ra cho vào túi vải ủ trong bao tải. Mỗi ngày rửa lại trong
nước ấm (30-400C) 1 lần. Khi hạt nứt nanh đem gieo vào khay cát. Sau 8-10 ngày,
khi cây mầm cao 2-3cm, nhổ cấy vào bầu. Bầu có kích thước 7-12cm, thành phần
ruột bầu 80% đất mặt vườn trộn 20% phân chuồng hoai. Những nơi gần rừng Phi
Lao, hỗn hợp ruột bầu có thể chế biến từ lớp đất mặt của rừng + 1% supe lân.
Thời vụ gieo tháng 2-3 và tháng 9-10. Thời gian nuôi cấy trong vườn ươm 4-6
tháng.
Khi ươm ở trong vườn phải tưới đều, trong 3 tháng đầu ngày tưới 1
lần, lượng tưới 4-5 lít/m2. Cây phát triển yếu, lá vàng phải dùng đạm và lân để
bón bổ sung. Cây trong vườn ươm cần được che bóng. Độ tàn che thích hợp là 25%
ánh sáng tự nhiên.
Cây xuất vườn phải đạt 7-8 tháng tuổi, có chiều cao l – l,20m,
đường kính cổ rễ > 1cm.
Ngoài phương pháp tạo cây từ hạt, có thể tạo cây con bằng cành
(dân gian thường gọi là lá) theo phương thức nhân vô tính, đặc biệt áp dụng đối
với các giống Phi Lao chịu hạn Trung quốc dòng 601, 701 mà Trạm giống cây trồng
Hàm Minh thuộc Trung tâm giống cây trồng Bình Thuận đã thực hiện thành công
trong nhiều năm qua.
Trồng và chăm sóc:
Vùng trồng Phi Lao có lượng mưa từ 1.500-2.500mm/năm; nhiệt độ
trung bình tháng lạnh nhất 150C, tháng nóng nhất 26-290C. Cây thích hợp nhất
với đất cát ven biển.
Thời vụ trồng: Ở vùng đồng bằng có thể trồng vào các vụ xuân, thu.
Vùng cát chịu ảnh hưởng gió lào trồng vào vụ thu (tháng 9). Chú ý chọn ngày
thời tiết tốt (có mưa, không có gió mạnh và nắng hanh).
Có thể trồng rễ trần hoặc bầu đất, tuỳ vùng, tuỳ thời tiết khi
trồng. Riêng vùng cát di động và bán di động bắt buộc phải trồng bằng bầu.
Kích thước hố trồng 30x30x30cm hoặc 40x40x40cm. Mật độ trồng ở
vùng đồng bằng 3.300cây/ha, ở vùng cát di động 5.000cây/ha. Khi trồng phải chú
ý chôn sâu, nện chặt, có thể sâu 1/3 thân cây và nên bón lót bằng phân chuồng
hoai hoặc rong biển (theo kinh nghiệm lâm trường Nam Quảng Bình, bón 0,5kg phân
rong biển + 50g phân lân vi sinh cho 1 gốc).
Chăm sóc: Vùng đồng bằng phải chăm sóc trong 2 năm đầu, mỗi năm
2-3 lần làm cỏ xới đất, vun gốc. Ở vùng cát phải chăm sóc 3 năm đầu; chú ý bắt
sâu đục thân và bón thúc 1 năm 1 lần với liều lượng 0,5kg phân rong biển + 50g
phân lân vi sinh cho 1 gốc.
Khai thác, chế biến và bảo quản
Phi Lao chủ yếu trồng để tạo rừng phòng hộ nên trong quá trình
trồng chỉ chặt vệ sinh. Sau 40-50 năm khi cây già cỗi, hết tác dụng phòng hộ sẽ
chặt trắng, trồng lại toàn bộ dải rừng. Nếu dùng làm củi thì chặt theo chu kỳ
6-15 năm. Thường việc thu vỏ được kết hợp với việc chặt lấy gỗ. Vỏ được bóc
ngay sau khi cây bị chặt xuống.
Năng suất. Trong điều kiện lập địa tốt, thì lượng tăng trưởng của
Phi Lao là 10m3/năm trong vòng 10 năm. ỞẤn Độ, rừng Phi Lao làm củi trồng cự li
1-2×1-2m với chu kỳ 6-15 năm cho năng suất 50-200 tấn gỗ/ha. Trọng lượng khô
của thân và cành trên một cây Phi Lao 3 tuổi, biến động từ 15-25kg.Trong 1ha
rừng Phi Lao có thể thu được 4 tấn/ha để làm củi.
Giá trị kinh tế, khoa học và
bảo tồn
Phi Lao là một loài cây LSNG đa tác dụng. Ngoài khả năng cung cấp
gỗ, củi, tanin, thuốc chữa bệnh, nguyên liệu cho công nghiệp giấy, Phi Lao còn
là một cây bảo vệ và cải tạo môi trường, đặc biệt là vai trò chắn gió và chống
cát bay. Ở Trung Quốc người đã trồng dải Phi Lao dài 3.000km dọc theo bờ biển.
Ta nên tăng cường trồng loài cây này.
Do được nhập vào Việt Nam từ lâu đời, nên có thể Phi Lao đã hình
thành các biến chủng thích nghi với điều kiện lập địa ở Việt Nam. Cần phát hiện
các biến chủng có lợi để sử dụng trong công tác chọn giống và trồng rừng.
0 Nhận xét
Cám ơn bạn đã quan tâm!